(Cập nhật ngày 22 08 2012)
Dịch Thuật ở Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIX - 1945 có vai trò đặc biệt quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam và có điểm đặc thù so với vai trò của Dịch Thuật trong nhiều nền văn hoá khác trong khu vực ở cùng thời kỳ.
Trước hết, Dịch Thuật ở Việt Nam giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945, nhất là trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, phản ánh đặc điểm chung của nhiều nền văn hoá phương Đông trong buổi đầu tiếp xúc với phương Tây, trong đó nổi bật lên vai trò của Dịch Thuật trong việc chuyển tải những yếu tố ngoại sinh (ở đây là văn hoá, văn minh phương Tây), góp phần tạo nên bước chuyển biến về chất, thúc đẩy quá trình hiện đại hóa văn hoá từ phạm trù văn hoá trung đại sang phạm trù văn hoá hiện đại. Dịch Thuật trong thời kỳ này có thể không nở rộ và đa sắc như trong thời kỳ giao tiếp liên văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhưng ý nghĩa văn hoá kể trên của Dịch Thuật trong thời kỳ này là không thể thay thế.
2. Đặt vấn đề khảo sát dịch thuật văn chương giai đoạn cuối thế kỷ XIX - 1945 trên bình diện ý thức văn hoá, người viết vừa muốn thu hẹp diện khảo sát, vừa muốn góp một góc nhìn về vai trò của Dịch Thuật văn chương, nhất là về vai trò của trí thức dân tộc trong hoạt động dịch thuật văn chương gắn với ý thức xây dựng một mô hình văn hoá mới nói chung, mô hình văn học mới nói riêng, chứ không chỉ là hoạt động dịch thuật văn chương chủ yếu mang tính ngẫu hứng, đua với vẻ đẹp nguyên tác phổ biến trong thời trung đại, hay với dịch thuật văn học như khi nền văn học dân tộc đã thực sự bước vào thời kỳ hiện đại.
Phan Kế Bính biên khảo, dịch thuật văn học từ rất sớm, nhưng phải đến Việt Hán văn khảo, khởi in trên Đông Dương tạp chí từ số 167 đến số 180, ông mới nêu rõ mục đích biên khảo, dịch thuật của mình là “mong giữ lại chút bóng thừa để lưu lấy một đôi tí cảnh tượng trong lúc trung thiên”(13). Trong công trình biên khảo này, Trương Vĩnh Ký tập trung khảo cứu, giới thiệu, dịch thuật nhiều tác phẩm văn chương cổ Trung Quốc như là những vốn cần được bảo tồn, giới thiệu và là cơ sở để hiểu văn chương Việt Nam. Trên quan điểm văn chương truyền thống, Phan Kế Bính đặc biệt chú ý đến văn Kinh, Truyện, dịch giới thiệu Ngũ kinh, Tứ thư, văn Chư tử, đồng thời ông cũng dịch, giới thiệu các tác phẩm của các “nhà văn nhân thi sĩ” tên tuổi như Tống Ngọc, Tương Như, Lưu Hướng, Tào Thực, các thi nhân nổi tiếng đời Đường, và cả văn học Trung Quốc thuộc các đời Nguyên, Minh, Thanh. Văn dịch của Phan Kế Bính trong sáng, uẩn súc và bám sát nguyên tác. Tuy có nhiều hạn chế, nhưng Việt Hán văn khảo là công trình khảo cứu công phu, tâm huyết, được coi là “những trang viết có giá trị mở đầu của bộ môn nghiên cứu lý luận văn học theo hướng hiện đại”(14). Việt Hán văn khảo là một trong những công trình được Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi dùng làm “tài liệu kê cứu” chính cũng cho thấy đóng góp khoa học của công trình này và đóng góp lớn của Phan Kế Bính trong việc bảo tồn, bắc nhịp cầu văn hóa giữa truyền thống và hiện đại.
Với Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục chúng tôi muốn đề cập đến một khía cạnh khác hơn. Trong số các dịch giả dịch thơ cổ Trung Quốc trên Nam phong tạp chí, khởi đầu từ các số Nam phong tạp chí năm 1918, Tùng Vân là người dịch nhiều và là người thể hiện rất rõ ý thức dịch thuật để bảo tồn và giới thiệu cho lớp hậu học không thạo Hán văn. Khác với nhiều dịch giả khác, Tùng Vân luôn chú ý đến việc ghi tác giả thơ, đặc biệt là sau mỗi bản dịch ông đều kèm theo Lời giải kiêm lời bình. Chẳng hạn dịch bài Dạ bạc Tần Hoài của Đỗ Mục, ông ghi: “Thơ này là thơ tức cảnh, vừa tức sự, lại kiêm ngụ ý. Hậu đình hoa = Tên khúc hát trong Nhạc phủ đời Trần. Trần Hậu Chúa mê chơi mà mất nước”(15). Những lời giải, lời bình của ông thiên về giảng giải vắn tắt từ thể điệu đến ý tứ cơ bản của bài thơ, cho thấy ông rất có ý thức hướng đến đối tượng người đọc có tính cách phổ thông. Tùng Vân không chú ý lắm đến việc giới thiệu có tính hệ thống về thi phái, thời đại văn học nhưng rất chú ý đến việc giới thiệu “thể cách”. Ông chọn dịch và giới thiệu theo từng thể thơ – ngũ ngôn cổ phong, ngũ ngôn luật, tứ tuyệt, bát cú – hoặc theo từng thể tài như thơ thuật hoài, thơ tả sự… Quan tâm đến giới thiệu thể cách văn chương, Tùng Vân dịch thơ theo nguyên điệu, nguyên thể vì chủ đích của ông là “Cổ thi có lắm thể (…). Nay thể nào dịch ra thể ấy, như thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, lại dịch ra thất ngôn, ngũ ngôn, chứ không dịch ra lục bát; là ý bảo tồn lấy thể cách, không những chải chuốt lấy âm vận mà thôi”(16). Tùng Vân đã từng dịch thơ văn cổ Trung Quốc ra lục bát, như các bản dịch Quy khứ lai từ (Đào Tiềm), Bắc Sơn di văn (Khổng Trĩ Khuê) rất hay, cho thấy ông là người có tài chuyển thể điệu và không câu nệ, nhưng ông vẫn theo đường dịch thuật vừa mang tính nghệ sĩ vừa với tư cách học giả gắn với ý thức bảo tồn, giới thiệu vốn văn chương cổ Á Đông. Nhiều bản dịch của Tùng Vân, theo lối giới thiệu và bảo tồn thể cách kể trên, rất đặc sắc, vừa lột tả được cái thần của nguyên tác, vừa có cách diễn đạt rất phù hợp với cách nói, cách cảm của người Việt. Hầu như không có tuyển dịch thơ Đường nào ở Việt Nam lại không có tuyển thơ dịch của Tùng Vân. Dịch cả trên trăm bài, lại trung thành với cách dịch nhằm bảo tồn thể điệu, có những trường hợp Tùng Vân không tránh khỏi gò ép, chẳng hạn dịch câu Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu thành Người tiên xưa cưỡi hoàng hạc cút(17) thì quả là vụng. Tuy nhiên khía cạnh khác chúng tôi muốn đề cập ở đây chính là, với những trường hợp như Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục, việc đánh giá đóng góp dịch thuật phải được nhìn nhận từ ý thức văn hóa của người dịch chứ không thể cứng nhắc lấy những tiêu chuẩn chung của dịch thuật để phán xét như có không ít người đã từng phê bình cách dịch cứng nhắc của Tùng Vân(18).
Bên cạnh xu hướng dịch thuật gắn với ý thức bảo tồn, bắc nhịp cầu giữa truyền thống với hiện đại, đáng chú ý có mảng dịch thuật văn chương gắn liền với ý thức giới thiệu những yếu tố mới mẻ, những mô hình gợi ý cho giới sáng tác văn học Việt Nam noi theo. Điều này phải đến Phạm Quỳnh (1892-1945) mới thật sự rõ nét, còn trước đó Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) dù đã dịch văn học phương Tây (Pháp) khá nhiều nhưng vẫn chưa thể hiện rõ ý thức giới thiệu những yếu tố mới mẻ, những mô hình mới làm đường hướng cho sáng tác văn học. Về mặt ý thức, Nguyễn Văn Vĩnh chú trọng nhiều hơn đến việc giới thiệu và khẳng định tư tưởng Âu Tây, đả phá cựu học và tuyên truyền cho chữ Quốc ngữ. Dịch thuật đối với ông là để đào luyện văn chương, chứng minh cho sự trưởng thành của chữ Quốc ngữ, cho sự phong phú của tiếng Việt, đồng thời là cách giới thiệu “Âu Tây tư tưởng”(19). Với Phạm Quỳnh thì khác, Phạm Quỳnh dịch văn chương với tư cách là học giả hơn là nhà văn. Cùng với việc dịch một số tác phẩm văn học cổ Trung Quốc (bút danh Hồng Nhân) để khẳng định việc cần giới thiệu tinh hoa văn học Á Đông, Phạm Quỳnh đặc biệt chú ý đến việc dịch những truyện ngắn Pháp, ông gọi là tiểu thuyết hoặc đoản thiên tiểu thuyết, để làm mẫu học theo. Trong số 24 truyện ngắn phương Tây được dịch trên Nam phong tạp chí, hầu hết là truyện ngắn Pháp (22 truyện), Phạm Quỳnh đã dịch đến 16 truyện với tinh thần như ông viết khi giới thiệu bản dịch đầu tiên – Truyện người lính chì bằng tuyết của Georges D’Esparbes – in trên Nam phong tạp chí từ số 2 (8/1917): “Truyện dịch sau này thuộc về lối “đoản thiên tiểu thuyết” (Conte, Nouvelle). Lối ấy là một lối hay trong văn chương Tây, các nhà văn sĩ ta có thể bắt chước mà làm bằng tiếng Nôm. Vì lối tiểu thuyết dài thì hiện nay người nước ta còn chưa đủ tư cách mà khởi hành được”(20). Đồng thời, Phạm Quỳnh còn khảo dịch về lịch sử văn chương Pháp, về nghề văn, về cách viết tiểu thuyết, về thơ… tất cả đều có tính gợi ý, định hướng cho bước hình thành và phát triển văn mới ở nước ta theo mẫu hình văn học phương Tây. Với tư cách là chủ bút và là học giả tên tuổi, công việc này của Phạm Quỳnh có ý nghĩa rất lớn đối với sự thúc đẩy tinh thần tập viết văn theo lối mới. Không phải ngẫu nhiên trên Nam phong những năm này xuất hiện khá đều những truyện ngắn viết theo lối đoản thiên của phương Tây như các truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Lê Đức Nhượng, Hoàng Ngọc Phách…
Sự xuất hiện của Nam phong tạp chí (1917), dù xuất phát từ ý đồ nô dịch văn hóa của thực dân Pháp, đánh dấu sự phát triển của xu hướng “điều hòa tân cựu” có tính tất yếu trong sự phát triển của văn hóa Việt Nam sau thời gian “bài cựu nghinh tân” quyết liệt trước đó. Là người trong cuộc, Nguyễn Đôn Phục thuật lại, trong khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ thì ông, cũng như nhiều nhà nho khác, “15 lăm năm về trước vốn ham thích về chủ nghĩa duy tân, 15 năm về sau lại ham thích về chủ nghĩa bảo tồn quốc túy” vì nhận ra đây đã là “thời đại nghiên cứu, thời đại lo toan, thời đại kiến thiết, không phải là thời đại hô hào, thời đại phá hoại”(21). Chính vì vậy, trong khoảng thời gian này, các học giả tân học và cựu học có vốn tân học, tập trung biên dịch, khảo cứu tư tưởng học thuật Đông – Tây. Tản Đà dịch Kinh thi (1924), theo chúng tôi, cũng chủ yếu xuất phát từ tinh thần này và vô hình trung đã có đóng góp cho nền văn học dịch nước nhà những bản dịch đặc sắc. Các học giả bấy giờ còn tranh luận nhiều về các vấn đề Quốc học, Quốc văn, về con đường phát triển của học thuật nước nhà. Trong đó, Dịch Thuật sách vở từ các thứ tiếng ra tiếng nói của dân tộc, tức ra chữ Quốc ngữ, được coi là đặc biệt cần cấp vì “muốn thành tập cho nền dân tộc học thuật, không dịch đủ các sách không được”(22). Trong bối cảnh ấy, dù dịch thuật văn học không được coi trọng bằng việc dịch thuật, giới thiệu tư tưởng, học thuật Đông – Tây, nhưng vẫn có bước phát triển hơn trước và phản ánh được phần nào quá trình vận động của nền văn học dân tộc trong buổi giao thời. Đó là ý thức bảo tồn tinh hoa văn học cổ điển, giới thiệu những đường hướng phát triển mới, thử nghiệm viết văn theo lối mới, và qua bức tranh phiên dịch, có thể thấy giá trị văn học cổ điển Á Đông trong buổi điều hòa tân cựu cũng đã trở lại là món ăn tinh thần có tính đại chúng trong đời sống tiếp nhận văn học những năm hai mươi đầu thế kỷ XX.
Bức tranh dịch thuật văn chương khoảng mười lăm năm tiếp theo cũng phản ánh khá rõ quá trình vận động văn học dân tộc đang trên đà có sức để tự khẳng định mình, và buổi đầu cũng biểu hiện ít nhiều những cực đoan cần thiết. Trong thập niên 1930, không kể phong trào dịch thuật truyện Tàu có tính thị trường nở rộ ở miền Bắc, tựa như ở miền Nam thập niên đầu thế kỷ XX, dịch thuật văn chương theo hướng giới thiệu những kiệt tác mới, những mô hình mới hầu như không tiến triển, thậm chí việc dịch giới thiệu những kiệt tác cổ điển Á Đông cũng không có gì đáng kể. Đã qua cái thời Phạm Quỳnh dịch và giới thiệu “đoản thiên tiểu thuyết” Pháp như là mẫu cho văn giới Việt Nam noi theo. Công việc dịch, biên khảo các sách về tư tưởng – học thuật cũng không được tiếp tục. Đây là điều bình thường khi đã trải qua giai đoạn giao thời, văn học Việt Nam đang có nhu cầu tự khẳng định mình trong việc xây dựng một nền văn học hiện đại có bản sắc riêng. Chủ trương “Tự lực mình làm ra những sách có giá trị về văn chứ không Dịch Thuật sách nước ngoài, nếu những sách này có tính cách văn chương thôi” của nhóm Tự lực văn đoàn(23) cũng là tinh thần chung của nhiều cây bút đương thời và là chủ trương hợp lý trước nhu cầu khẳng định mình. Quả thật, trong thập niên này có hẳn một tuần san chuyên về tiểu thuyết, Tiểu thuyết thứ Bảy (số đầu ngày 2-6-1934) của nhóm Tân Dân, nhưng tiểu thuyết được dịch trên tuần san này chỉ có tính giải trí, mua vui với tác phẩm dịch chủ yếu là các tiểu thuyết thuộc loại giang hồ kỳ hiệp, và cả dịch thơ Đường theo lối điểm xuyết trong từng số báo. Việc dịch thơ ca cổ điển Trung Quốc trên các báo và tạp chí khác cũng rất thưa thớt. Ở trong Nam, một tờ báo đáng kể vào loại lớn như Phụ nữ tân văn (1929-1934), lúc này đã phát hành ra Bắc, cũng chỉ có một bản dịch thơ cổ – bài Trừ tịch dạ túc thạch đầu của Đái Thúc Luân (Ngạo Nguyệt dịch) trong một số báo xuân năm 1930. Tạp chí Đông Thanh (1932-1938) ở miền Bắc có sự cộng tác của Ngô Tất Tố, một trong những dịch giả thơ Đường có tiếng như chúng ta đã biết, những năm này cũng không dịch bài thơ Đường nào cho tạp chí này. Còn Tản Đà dịch thơ Đường cốt để bán cho báo Ngày Nay, dịch Liêu Trai bán cho nhà Tân Dân với tinh thần dịch như ông từng tâm sự: “cái việc dịch thơ để đăng báo, nó làm cho mình cũng phải tùy thời như các báo. Dạo này mùa thu, nên cũng phải dịch bài về mùa thu”(24).
Tuy vậy, đầu những năm 1940 xuất hiện một hiện tượng dịch thuật văn chương khá đặc biệt. Đó là việc Đặng Thai Mai giới thiệu khá đều đặn và tương đối có hệ thống nền văn học mới Trung Quốc ở nước ta trong bối cảnh văn học Việt Nam vẫn hướng theo mô hình của văn học phương Tây, và nhất là trong bối cảnh nhiều trí thức ở ta, tiêu biểu như Hoài Thanh, coi “Trung Quốc hiện đại không có gì nữa, chỉ có cách phải quay về những cái đẹp cổ xưa như sứ Giang Tây, thơ Đường”(27). Đặc biệt còn vì ở tinh thần và ý thức giới thiệu của người dịch. Đặng Thai Mai mở đầu việc dịch và giới thiệu nền văn học mới Trung Quốc vào tháng 10 năm 1942 với bản dịch Người với thời gian của Lỗ Tấn trên mục Danh văn ngoại quốc của báo Thanh Nghị, sau đó là hàng loạt tác phẩm của Lỗ Tấn từ thơ, truyện ngắn, đến tạp văn và tiểu thuyết. Đến năm 1944 Đặng Thai Mai tập hợp lại cho ra đời tập sách dày dặn Lỗ Tấn – Thân thế, Văn nghệ gồm 220 trang, khổ 11 x 18cm, trong đó phần khảo về thân thế, nhân cách và địa vị Lỗ Tấn trong nền văn học hiện đại chiếm 50 trang, phần còn lại là tác phẩm Lỗ Tấn tuyển dịch. Ngoài tác phẩm Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai còn dịch kịch của Trần Lâm, Tào Ngu, dịch tạp văn Trung Quốc, viết bài giới thiệu về Những bước đầu tiên trong cuộc vận động Tân văn hóa ở Trung Quốc và khảo luận về Địa vị văn hóa Trung Quốc trong học thuật nước ta sau này…(28). Đặng Thai Mai dịch văn học hiện đại Trung Quốc không chỉ nhằm chứng minh Trung Quốc hiện đại không phải không có gì, mà sâu xa hơn, còn vì ông nhận ra đó còn là “cả một tư trào văn học, một cuộc đấu tranh, một thời đại oanh liệt”(29). Ông cũng nêu rõ trong Lời giới thiệu cuốn Tạp văn trong văn học Trung Quốc ngày nay (1945): “Giới thiệu Tạp văn trong văn học Trung Quốc ngày nay cùng các độc giả nước ta, chúng tôi rất mong rằng: các bạn thanh niên nếu ai có chí hướng “từ đời sống đại chúng bước vào lĩnh vực văn nghệ” sau này, sẽ nhận rõ mục đích và ý nghĩa văn học đại chúng trong một thời kỳ lịch sử Trung Quốc. Một nền “nghệ thuật vị nhân sinh” không bao giờ khinh miệt tính cách thời sự của văn nghệ”(30).
Ý thức dịch thuật văn chương còn thể hiện rõ ở quan niệm về dịch thuật. Trước và cùng thời với Đặng Thai Mai không phải không có những quan niệm khoa học về tinh thần và phương pháp dịch thuật. Quan niệm Dịch thuật như một cách đào luyện văn chương của Nguyễn Văn Vĩnh trong thập niên đầu thế kỷ XX và của Kiều Thanh Quế đầu những năm 1940, hay cách dịch theo nguyên thể, nguyên điệu của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục… đều có những khía cạnh tích cực, nhưng phải đến Đặng Thai Mai quan niệm và phương pháp dịch thuật văn chương, thể hiện trong Lời nói đầu cuốn Lỗ Tấn – Thân thế, Văn nghệ, mới được phát biểu một cách súc tích, khoa học và thể hiện khá rõ trong thực tiễn dịch thuật của ông.
Trước hết, nghiên cứu mảng dịch thuật văn chương giai đoạn cuối thế kỷ XIX – 1945 không thể tách rời với bối cảnh văn hóa – lịch sử trong thời kỳ đầu tiếp xúc có tính toàn diện giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa phương Tây, trong đó dịch thuật văn chương thường xuất phát từ ý thức văn hóa sâu rộng hơn là xuất phát từ mục đích hoạt động và sáng tạo văn học có tính chuyên biệt. Điều này liên quan trực tiếp đến việc đánh giá, nhìn nhận những đóng góp về phương diện dịch thuật văn chương của nhiều dịch giả, học giả đương thời.
Thứ hai, nghiên cứu dịch thuật văn chương giai đoạn cuối thế kỷ XIX – 1945 suy cho cùng cũng là nhằm góp phần nghiên cứu những vấn đề cơ bản của văn học Việt Nam trong tiến trình hiện đại hóa. Nghiên cứu tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến vai trò của văn học phương Tây, tiêu biểu là văn học Pháp. Điều đó đúng. Nhưng theo chúng tôi, cũng cần chú ý đến vai trò của văn học Trung Quốc đối với tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc, nhất là trong buổi đầu của tiến trình. Qua khảo sát mảng dịch thuật văn chương Quốc ngữ ở phạm vi hẹp, và chắc chắn là còn rất chưa đầy đủ, cũng có thể thấy rằng trong quá trình hiện đại hóa, văn học Việt Nam đã tìm đến truyền thống văn hóa, văn học dân tộc cũng như nhiều thành tố văn hóa, văn học Trung Quốc – với tư cách là thành tựu chung của văn hóa, văn học khu vực – như tìm về nguồn nội sinh để phát triển..
Cuối cùng, việc dịch thuật văn chương nghiêm túc ở thời kỳ nào, theo chúng tôi, cũng cần xuất phát từ ý thức văn hóa trong dịch thuật. Trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa hiện nay, việc định hướng dịch thuật, giới thiệu những tác phẩm văn học nước ngoài vừa phù hợp với tâm thức văn hóa của dân tộc, vừa góp phần gợi những đường hướng sáng tác mới lại càng cần thiết hơn bao giờ hết./.
INTERPROTRANS CO., LTD
Yêu cầu báo giá: baogia@dichthuatnhanh.vn
Gửi dịch tài liệu: sales@dichthuatnhanh.vn
VP Giao Dịch: Tầng trệt, Tòa Nhà Ngân Hàng MB, 2A Nguyễn Thị Minh Khai, Phường Đa Kao, Q1, HCM. (Đối diện với Thảo cầm Viên)
* Hotlines: 01998 22 55 66
01998 22 55 77
01998 22 55 88
01998 22 55 99
* Phone: (+84) (8) 39111959 hoặc (+84) (8) 22197135
* Fax: (08) 39111960
Nguồn: http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=3050%3Adc
Các tin tức khác
DỊCH THUẬT LÀ GÌ? THẾ NÀO LÀ MỘT CÔNG TY DỊCH THUẬT UY TÍN?(04 08 2017)
NHƯ THẾ NÀO ĐƯỢC COI LÀ CÔNG TY DỊCH THUẬT CHUYÊN NGHIỆP (04 08 2017)
CÁC CÔNG TY DỊCH THUẬT UY TÍN HIỆN NAY CÓ NHỮNG DỊCH VỤ NÀO?(04 08 2017)
DỊCH THUẬT CÔNG CHỨNG GIÁ RẺ CUNG CẤP ĐA DỊCH VỤ VÀ ĐA NGÔN NGỮ(04 08 2017)
KHÓ KHĂN KHI SỬ DỤNG DỊCH VỤ DỊCH THUẬT(04 08 2017)